Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử

Nguyễn Đức Hiệp

Saigon có một vị trí đặc biệt, là ranh giới và là cửa ngỏ của miền Tây nam bộ và miền Đông nam bộ. Miền Tây Nam bộ nhiều người đã viết về con người, sự phong phú, phát triển của miền sông nước này. Đông Nam Bộ xưa là vùng giao thoa của văn minh Khmer, Champa nay là của Khmer, Chăm và Việt. Bài này tôi muốn viết về địa lý và phát họa vài nét về con người và lịch sử vùng đất Đông Nam bộ, đặc biệt là cột xương sống giao thông Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận hiện nay và xưa kia của hai nền văn minh Khmer và Champa và trước đó của văn hoá Sa Huỳnh và Óc Eo. Về địa lý thì Saigon là trung tâm của lưu vực từ sông Đồng Nai tới sông Vàm Cỏ, vì thế là một phần và là trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Đông Nam bộ có lịch sử lâu đời là vùng giao tiếp của 2 nền văn minh lớn Champa và Khmer thuở xưa và cũng là vùng có nhiều dân tộc ít người có liên hệ mật thiết về ngôn ngữ, văn hóa với thế giới Chăm và Mon-Khmer mà tiếng Việt là một nhánh. Đây cũng là vùng cư ngụ của dân tộc Stieng, Mạ, Mnong, Chu Ru (Châu Ro). Vì là vùng giao tiếp, các dân tộc ở đây nói tiếng thuộc hai hệ ngôn ngữ chính Mon-Khmer (Khmer, Stieng, Mnong), và Nam đảo Austronesian (Chăm, Chu Ru, Mạ, Jarai, Rade, Ede). Trước khi người Việt, Khmer và Chăm đến thì cả vùng Saigon, Đông Nam Bộ là cư dân Stieng, Chu Ru và Mạ cư ngụ chủ yếu dọc sông Đồng Nai, Saigon từ thượng nguồn tới gần cửa biển Cần Giờ.

Phát triển năng lượng gió – kinh nghiệm của một số nước

Vũ Thành Tự Anh
Đàm Quang Minh
 

Năng lượng gió: Mới và đầy sức sống
Mặc dù điện gió bắt đầu được thế giới để ý đến từ 25 năm trước, nhưng chỉ trong gần 10 năm trở lại đây nó mới khẳng định được vị trí trên thị trường năng lượng thế giới khi sản lượng điện gió tăng trưởng một cách ngoạn mục với tốc độ 28%/năm, cao nhất trong tất cả các nguồn năng lượng hiện có (Hình 1). Sự phát triển thần kỳ này của điện gió có được là nhờ vào một số thay đổi quan trọng trong thời gian qua.

Đầu tiên phải kể đến những tiến bộ về công nghệ có tính đột phá trong thời gian qua đã giúp giảm giá thành điện gió xuống nhiều lần, đồng thời tăng công suất, hiệu quả, và độ tin cậy của các trạm điện gió. Cụ thể là nếu như vào năm 1990, công suất trung bình của một trạm điện gió ở Đan Mạch và Đức chỉ vào khoảng 200 KW, thì đến năm 2002 đã lên tới 1,5 MW và hiện nay các nước này đang phát triển các tuốc bin lớn cỡ 5-10 MW nhằm phát triển các trạm điện gió trên thềm lục địa. Hiệu quả của các trạm điện gió này cũng được cải thiện từ 2 đến 3% mỗi năm, góp phần vào việc giảm 30% giá thành điện gió trong vòng 12 năm(2).

Năng lượng gió của Việt Nam, tiềm năng và triển vọng

Vũ Thành Tự Anh
Đàm Quang Minh

Năng lượng là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người và là một yếu tố đầu vào không thể thiếu được của hoạt động kinh tế. Khi mức sống của người dân càng cao, trình độ sản xuất của nền kinh tế ngày càng hiện đại thì nhu cầu về năng lượng cũng ngày càng lớn, và việc thỏa mãn nhu cầu này thực sự là một thách thức đối với hầu hết mọi quốc gia. Ở Việt Nam, sự khởi sắc của nền kinh tế từ sau Đổi Mới làm nhu cầu về điện gia tăng đột biến trong khi năng lực cung ứng chưa phát triển kịp thời. Nếu tiếp tục đà này, nguy cơ thiếu điện vẫn sẽ còn là nỗi lo thường trực của ngành điện lực Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp và người dân cả nước.

THE EFFECTS OF HYDROMETEOROLOGICAL NATURAL HAZARDS ON VIET NAM DEVELOPMENT SINCE DOI MOI, AND IMPLICATIONS OF GLOBAL CLIMATE CHANGE FOR FUTURE HAZARDS

Tan Pham

Abstract
The policy of Doi Moi, first introduced in 1986, has made a dramatic impact on the reduction of poverty in Viet Nam. From a high of 70% in 1990, the poor, as a percentage of the population, fell to 58% in 1993, 37% in 1998 and around 29% in 2002. Worldwide, the decade has also experienced a surge in hydrometeorological natural disasters (floods, droughts, extreme temperature events and windstorms). In developing countries, the frequency of hydrometeorological natural disasters has increased nearly 3-fold from 55 events per year in the 70s to around 140 events in the 90s. Vietnam has had more than its share of natural disasters. The floods in 1999 in Central Vietnam caused an estimated damage of USD 340 million and had set the development of the region back for many years. Vietnam, with its long coast line and low lying plains where most people live, is particularly exposed to hydrometeorological natural disasters.
This paper will describe the hydrometeorological natural hazards to which Vietnam has been exposed over past decades and the vulnerability of the country to such hazards. We will then briefly explore the question of how such hazards may change in the future, due to global climate change. The paper5 will also describe briefly the policies and activities that the Vietnamese Government has implemented to address hydrometeorological natural hazards.

The Effects of Hydrometeorological Natural Hazards on Vietnam Development since Doi Moi, and Implications of Global Climate Change for Future Hazards

Tan Pham

Globally, the climate is changing 


From Fig 2-3, Synthesis Report, IPCC Third Assessment Report 

IPCC, 20001: “There is new and stronger evidence that most of the warming over the last 50 years is attributable to human activities”

Từ Đồng Bằng Sông Cửu Long đến Châu Thổ Nam California

Phạm Phan Long P.E

Thử Thách Xưa và Nay trên Châu Thổ Sông Cửu Long
Các thông tin và dự báo về nguy cơ của các đập thủy điện vĩ đại của Trung Quốc giáng xuống hạ nguồn sông Mekong đã được bàn thảo qua ba kỳ Hội Thảo về Sông Mekong tại Nam California, qua nhừng bài khảo cứu trên các tạp chí như Thế Kỷ 21, nhật báo Người Việt, Việt Báo, Ngày Nay và Đi tới. The 1999 Mekong Papers, The 1999 Mekong River Declaration, các thông tin của International Rivers Network, World Commission on Dams đã gây chú tâm cho người Việt hải ngoại và dần dần vang vọng về nước. Nhừng tác phẩm văn học của nhà văn Ngô Thế Vinh, các phóng sự của RFI, RFA, BBC, và gần đây là tường trình The Global Water Crisis trên Newsweek số tháng 7, vấn nạn nguồn nước không chỉ cam go cho Việt Nam mà là mối đe dọa sự no ấm của cả địa cầu.

Doanh nghiệp và Môi trường

Nguyễn Đức Hiệp

Bài học ở nhiều nước cho thấy, giá phải trả khi không áp dụng và thi hành luật môi trường về lâu dài sẽ là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận trước mắt. Tác nhân thường lại không gánh chịu hậu quả mà là xã hội, người dân và thế hệ sau gánh chịu.

Ngày nay doanh nghiệp không thể không coi vấn đề môi trường là ngoại vi, không quan trọng hay cần thiết trong mọi hoat động của mình nữa. Nó có ảnh hưởng vào mục tiêu chủ yếu (bottom line) của mọi doanh nghiệp: đó là mực lãi doanh thu tài chánh trong hạch toán các sản phẩm của doanh nghiệp. Có trách nhiệm về môi trường không những làm hình ảnh và sản phẩm của công ty được người tiêu dùng đánh giá cao và thưong hiệu có giá trị mà còn có thể giảm đi giá thành tiết kiệm được nhiên liệu, giá hoạt động.